Kỹ thuật xử lý nước bị nhiễm phèn nặng
Nước nhiễm phèn khiến tôm, các còi cọc, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp, gây thiệt hại nghiệm trọng về năng suất cũng như chất lượng đầu ra của vật nuôi. Chính vì vậy, việc xử lý phèn trong ao nuôi là vấn đề cấp thiết.
1. Tác hại của nước nhiễm phèn
Ao nuôi nhiễm phèn nặng thường đi kèm với pH thấp. Lượng canxi thấp làm mất cân bằng áp suất thẩm thấu giữa vật nuôi và môi trường nước. Khiến tôm khó lột vỏ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình tạo vỏ, khiến tôm mềm vỏ hoặc lột vỏ không hoàn toàn, bị dính vỏ, tỷ lệ sống không cao.
Nước ao nhiễm phèn nặng còn làm giảm khả năng gắn kết giữa oxy và hợp chất HP trong máu. Quá trình hồ hấp tăng cao làm cho tôm cá và vi sinh vật ảnh hưởng nghiêm trọng hơn từ đó giảm khả năng sinh trưởng, sinh sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất nuôi. Hợp chất phèn lơ lửng trong nước sẽ bám vào mang, cản trở quá trình hô hấp của tôm, đặc biệt tôm còn nhỏ. Nồng độ pH thấp làm cho lượng H2S trở nên độc hơn gây ức chế cho quá trình trao đổi chất và chuyển hóa oxy của tôm nuôi làm cho tôm nuôi chậm lớn, màu sắc kém, mất giá.
Ao nuôi nhiễm phèn làm tảo chậm phát triển. Thông thường ao nuôi nhiễm phèn màu nước sẽ thay đổi thường xuyên.
2. Nguyên nhân nước nhiễm phèn
Nước nhiễm phèn là do đất tại vùng đào ao có chứa hàm lượng sulfat cao. Cùng với điều kiện yếm khí và hoạt động của vi sinh vật nên sulfat bị khử. Từ đó gốc lưu huỳnh sẽ kết hợp với hàm lượng sắt có trong trầm tích tạo thành chất FeS2.
Dấu hiệu cho biết vùng đất nhiễm phèn thường có màu xám đen. Khi phơi khô đát thường có phấn trắng. Việc đào ao nuôi tôm thì việc xử lý phèn sẽ rất vất vả.
3. Biểu hiện ao nuôi nhiễm phèn
Sau những cơn mưa, ao nhiễm phèn thì nước ao sẽ trong hơn hoặc chuyển màu trà nhạt, có màu vàng nhạt nổi trên mặt nước, kiểm tra không có tảo phát triển.
Ao nuôi tôm, quan sát thất toàn bộ thân tôm chuyển từ màu sáng trong sang màu vàng nhạt đến vàng đậm, màu nước trà, sờ vỏ tôm có cảm giác cúng hơn bình thường, đồng thời, mang tôm chuyển sang màu vàng và sờ cứng lại. Tôm khó lột xác và bắt đầu bỏ ăn sau những trận mưa kéo dài. Ao phèn nặng tôm dạt vào bờ, chết rải rác.
4. Cách xử lý ao nhiễm phèn
Khi cải tạo, người nuôi không nên phơi đáy. Cần cải tạo ướt như cày ngâm nước, thua chua liên tục 3-4 lần. Sau khi thau chua nước vẫn có màu đỏ cần bón lân với liều 2-3kg/100m2.
Bón vôi nông nghiệp để khử trùng, tăng pH với liều 15-20kg/100m2. Nếu pH thấp thì bón thêm vôi.
Tăng công suất quạt từ 25-30hp/ha.
Lấy nước vào ao 1,2-1,5m, khử trùng và bật quạt, đo lại pH. Nếu nước bị đục và có váng phèn thì có thể dùng EDTA hoặc AQUAZEX (0,5-0,7kg/100m3).
Sau khi xử lý nước có thể bón cám ủ, bột cá để gây màu nước trong ao. Khi ao lên màu nước, kiểm tra độ trong của nước đạt 35-40 cm là được.
Cần lưu ý, sau mỗi trận mưa, nước mưa có chứa axit và lượng xì phèn trên bờ có thể trôi xuống ao làm giảm pH. Cần dùng Zeolite để keo tụ chất vẩn, sau đó sử dụng chế phẩm sinh học để khoáng hóa đáy ao, đồng thời dùng vôi dolomite hòa vào nước ngọt 24 giờ. Sau đó tạt đều xuống ao lúc 8-10 giờ đêm, liều lượng 1,7 kg/100 m3 nước. Nên rải vôi nông nghiệp quanh bờ ao trước khi trời mưa.
Trời sắp mưa, cần giảm lượng thức ăn hoặc thậm chí ngừng cho ăn. Nếu dư thức ăn sẽ làm cho tảo lục phát triển mạnh, pH nước ao dao động, tôm sẽ bị đóng rong.
Để bảo đảm sức đề kháng và tránh cho tôm bị mềm vỏ, có thể trộn men vi sinh, khoáng chất và Vitamin C vào bữa chính cho tôm ăn mỗi ngày. Từ tháng nuôi thứ 2 trở đi, cần vận hành quạt khí liên tục. Ổn định pH trong ao bằng vôi nông nghiệp và dolomite. Sau 2 tháng, có thể xi phông chất thải dưới đáy ao do quạt nước gom tụ lại, tạo điều kiện thuận lợi cho tôm phát triển tốt.