Bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng và cách phòng ngừa
Một số trường hợp khác tôm bị đốm đen chỉ được phát hiện khi thu hoạch dẫn đến giảm giá trị thương phẩm.
Quan sát và theo dõi các dấu hiệu lâm sàng cho thấy “bệnh đốm đen” rất giống với các triêu chúng của bệnh NHPB (Necrotizing hepatopancreatitis bacterium-hoại tử gan tụy) đã được mô tả và nghiên cứu trước đây.
Bệnh NHP (hoại tử gan tụy) do vi khuẩn gây ra hoàn toàn khác với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính EMS/AHPNS/AHPND mà ta đã biết.
Kiểm tra PCR tôm bị đốm đen cho kết quả hoàn toàn âm tính với EMS/AHPNS/AHPND.
1. Dấu hiệu lâm sàng
Nhìn chung, những ao nuôi có tôm bị “bệnh đốm đen” khi kiểm tra môi trường ao nuôi phần lớn đều có hàm lượng khí độc NH3 hoặc NO2 vượt ngưỡng cho phép, độ kiềm dưới 100ppm kéo dài và hàm lượng oxy không đạt ngưỡng tối ưu 6ppm trong suốt thời gian nuôi.
“Bệnh đốm đen” xảy ra ở các độ mặn khác nhau từ 5‰ đến 20 – 25‰.
Thời gian xảy ra bệnh từ giai đoạn 20 đến 90 ngày tuổi, tập trung nhiều nhất ở giai đoạn 25-45 ngày tuổi.
Tôm thường có tỷ lệ mắc “bệnh đốm đen” cao và giai đoạn chuyển mùa. Thời tiết thay đổi bất thường diễn ra kéo dài trong 5-10 ngày, hoặc nhiệt độ nước trên 29 độ C trong thời gian dài.
Tuy vậy, tôm vẫn có thể mắc phải bệnh này trong suốt năm bất kể tình trạng thời tiết.
Tỷ lệ chết có thể lên đến 95% trong vòng 15-30 ngày kể từ khi phát hiện bệnh nếu không có bất kỳ biện pháp chữa trị nào được áp dụng ngay tức thời đối với trường hợp ao nuôi ô nhiễm nặng và hàm lượng vi khuẩn trong nước ao nuôi vượt ngưỡng gấp nhiều lần.
Quan sát trên tôm bệnh thường thấy các dấu hiệu lâm sàng như sau:
- Tôm lờ đờ, giảm ăn hoặc bỏ ăn.
- Tốc độ tăng trưởng chậm.
- Trên thân xuất hiện nhiều đốm đen li ti hoặc mang lớn màu đen, mang màu tối hoặc đen, đuôi mỏng, có thể có những tổn thương phụ bộ như mòn đuôi và vảy râu, cụt râu, …
- Đối với những trường hợp bệnh nặng ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt, bề mặt thân tôm bị đốm đen có thể có mùi hôi.
2. Diễn biến bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng
Ở giai đoạn đầu của bệnh dấu hiệu lâm sàng dễ nhận thấy nhất là đàn tôm bắt đầu có hiện tượng tổn thương các phụ bộ như mòn đuôi, cụt râu, tuy nhiên tôm vẫn ăn bình thường, không có bất kỳ biểu hiện nào cho thấy gan yếu, nhợt nhạt và đường ruột vẫn đầy thức ăn.
Một dấu hiệu có bản khác để phát hiện sớm bệnh là râu và đuôi của tôm chuyển sang màu đỏ, đuôi có thể bị phồng nhẹ, nhưng các dấu hiệu tổn thương rõ ràng như trên chưa xuất hiện.
Giai đoạn kế tiếp của bệnh xuất hiện nhiều đốm đen rải rác trên vỏ tôm.
Các đốm đen có thể xuất hiện cả trên giáp đầu ngực, và toàn thân tôm, nhiều trường hợp quan sát tôm chỉ thấy vài vết đen giữa lưng, đầu hoặc ở đuôi có gây hiểu nhầm do mật độ tôm cao nên đâm nhau trong quá trình hoặt động và gâu tổn thương vỏ.
Giai đoạn này tôm bắt đầu giảm ăn dần đến bỏ ăn, tốc độ tăng trưởng chậm, chết rải rác trong ao, trong vó.
Có thể xuất hiện tình trạng tôm bị trắng lưng, đục thân và lột xác không hoàn toàn.
Giai đoạn nặng hơn tỷ lệ chết tăng cao, tỷ lệ tôm xuất hiện đốm đen trên thân tăng cao và nhanh, có thể chiếm đến 70% đàn tôm.
Gan tụy nhợt nhạt, tôm tấp mé, ruột rỗng.
3. Theo dõi sức khỏe đàn tôm
Thông thường người nuôi thường bắt đầu quang sát tôm trong vó sau 20 ngày tuổi.
Các biện pháp kiểm tra tổng thể đàn tôm sau đó như chài hoặc đặt lồng bắt tôm cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh có thể lên đến 30-40% trong đàn.
Cũng có nhiều trường hợp người nuôi ít khi có thói quen đánh giá tình trạng sức khỏe tôm qua vó hoặc không chài tôm kiêm trả định kỳ hàng tuần sau khi tôm đạt 25 ngày tuổi nên khi phát hiện bệnh qua vài con tôm cập mé, lờ đờ, xuất hiện đốm đen thì các biện pháp đánh giá tổng đàn bằng chài lúc này thường cho kết quả tôm đã nhiễm bệnh với tỷ lệ cao.
4. Tốc độ lan truyền bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng
Tùy theo điều kiện môi trường ao nuôi và sức khỏe của tôm mà tốc độ phát triển và lây lan bệnh trong đàn tôm nhanh hay chậm.
Ghi nhận và thống kê hàng trăm trường hợp ao nuôi bị “bệnh đốm đen” cho thấy tốc độ lây lan nhanh đối với các ao nuôi ô nhiễm nặng, hàm lượng khí độc NH3, NO2, H2S cao, hàm lượng oxy thấp dưới 4 ppm và không ứng dụng quy trình sử dụng vi sinh định kỳ trong ao nuôi hoặc công tác chuẩn bị ao ,tẩy trùng diệt khuẩn trong giai đoạn này không được thực hiện hoàn chỉnh.
Các kiểm tra vi khuẩn bệnh trên môi trường TCBS cho thấy mật độ vi khuẩn gây bệnh trong môi trường nước từ 105 CFU/ml.
5. Phòng bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng
Hiện tại chung tôi vẫn chưa xác định rõ nguyên nhân gây ra bênh. Tuy nhiên như trình bày ở trên, nguyên nhân có thể là do vi khuẩn gây ra.
Về nguyên tắc, phần lớn các bệnh nhiễm khuẩn và lây lan nhanh có thể nhiễm từ tôm bố mẹ, trại giống, từ môi trường. Việc phòng bệnh chú trọng đến việc cải tạo, duy trì môi trường.
- Quá trình cải tạo cần phải diệt khuẩn kỹ.
- Kiểm tra chất lượng tôm giống.
- Mật độ thả nuôi phải phù hợp.
- Sử dụng các chế phẩm sinh học định kỳ và thường xuyên.
- Kiểm tra mật độ vi khuẩn gây bệnh định kỳ 5-7 ngày/lần.
- Bổ sung khoáng chất và các chất tăng cường khả năng diệt khuẩn, tăng khả năng đề kháng.
- Điều chỉnh lượng ăn phù hợp.
- Kiểm tra hàm lượng oxy trong ao thường xuyên.
- Nên đặt vó kiểm tra sau 15 ngày thả nuôi.
6. Biện pháp chữa trị bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng
Phác đồ chữa trị chung cho bệnh đốm đen như sau:
Đối với môi trường nước
1. Tiến hành diệt khuẩn trong ao bằng sản phẩm phù hợp tùy theo giai đoạn tuổi tôm.
2. Cấy vi sinh lại với hàm lượng cao sau 36 giờ diệt khuẩn.
3. tăng cường sụt khí.
Đối với tôm
1. Giảm cho ăn từ 10-30% lượng cho ăn hàng ngày.
2. Bổ sung vitamin C, khoáng chất, vitamin tổng hợp và hoạt chất tăng cường miễn dịch cho tôm.
Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong quá trình điều trị vì chúng có khả năng gây lờn thuốc nếu sử dụng không đúng cách, tái nhiễm với cường độ cao hơn dẫn đến khó chữa trị, nhiễm bệnh khác vì vô tình gây ra tình trạng lờn thuốc, biến thể với chủng vi khuẩn gây bênh khác.
Với tỷ lệ nhiễm bệnh dưới 40%, môi trường nước không bị ô nhiễm nặng và sức khỏe tôm tốt, phác đồchữa trị trên hoàn toàn có tác dụng.
Phác đồ chữa trị đơn giản trên phát hủy hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào chất lượng sản phẩm mà người nuôi sử dụng.
Với những sản phẩm chất lượng cao và phù hợp giai đoạn bệnh hầu như 90% các trường hợp chữa trị đều mang đến thành công.